Phòng, chống tham nhũng là gì? Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng? Trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng?
Vấn đề tham nhũng là một vấn đề quan trọng và đáng báo động ở mọi quốc gia, bởi lẽ những hậu quả của nó đem lại là vô cùng nặng nề đe dọa đến sự phát triển của một quốc gia. Chính vì vậy mà hiện nay các quốc gia đang không ngừng thực hiện nhiều chương trình và biện pháp hướng đến giảm thiểu, chấm dứt nạn tham nhũng diễn ra; để phát huy được hết sức mạnh của các chương trình, biện pháp này đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của mọi cấp, mọi ngành và mọi người dân.
Bạn đang xem: Trách nhiệm của học sinh trong phòng chống tham nhũng
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568
Mục lục bài viết
3 3. Trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng:
1. Phòng, chống tham nhũng là gì?
Tham nhũng là một hiện tượng tất yếu của xã hội có sự phân chia giai cấp, có nhà nước; bơi tham nhũng luôn gắn với quyền lực nhà nước; một số người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước đã lợi dụng quyền lực nhà nước để nhằm thu lợi ích bất chính về cho mình, cho gia đình, cho người thân của mình.
Tham nhũng gây thiệt hại đến nền kinh tế của đất nước, nó làm suy thoái đạo đức lối sống của không ít cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó hiện tượng tham nhũng còn làm cho bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu quả thậm chí làm mục rỗng cơ cấu hoạt động của bộ máy nhà nước đe dọa đến sự tồn vong của đất nước, của chế độ; Chính vì vậy mà cấp thiết Đảng và nhà nước, nhân dân phải có những phương pháp, chương trình nhằm hạn chế, tiến tới tiêu diệt những mầm họa này.
Theo đó phòng, chống tham nhũng được hiểu là: bao gồm các hoạt động của hệ thống cơ quan Đảng, bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và toàn thể nhân dân, căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị – xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế – xã hội đất nước phát triển bền vững.
2. Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng:
Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
Tham nhũng là căn bệnh của bộ máy nhà nước; đồng thời, đó cũng là một tệ nạn xã hội cần phải được bài trừ và lên án của cả xã hội. Mọi công dân đều có trách nhiệm tham gia tích cực để ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ các điều kiện tồn tại của tham nhũng ra khỏi đời sống xã hội. Nếu như đấu tranh chống tham nhũng trước hết là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước thì việc tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh đó vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của các tổ chức và từng thành viên trong xã hội. Các em học sinh, sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cũng đã có thể tham gia tích cực vào công tác đấu tranh. Phòng chống tham nhũng; sự tham gia của các em được thể hiện trước hết ở thái độ nghiêm túc trong học tập, tự phấn đấu bằng chính năng lực của bản thân. Bên cạnh đó, các em cũng cần có thái độ thẳng thắn và đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện tiêu cực diễn ra trong phạm vi nhà trường.
Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn đấu tranh chống tham nhũng, các nước trên thế giới đều khẳng định trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội, công dân đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến chống tệ nạn tham nhũng. Vai trò của xã hội thể hiện ở việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện đối với hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và trong công tác phòng chống tham nhũng nói riêng. Xã hội có quyền đòi hỏi Nhà nước thực hiện đúng chức năng của mình cũng như đòi hỏi phải xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm của đội ngũ cán bộ, công chức, những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hình thành nên từ sự đóng góp của các thành viên trong xã hội. Để phát huy hết khả năng và năng lực của toàn xã hội Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có những quy định để tạo cơ sở pháp lý để xã hội tham gia đấu tranh chống tệ tham nhũng qua việc quy định vai trò và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên; vai trò và trách nhiệm của báo chí; vai trò và trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; trách nhiệm của công dân và ban thanh tra nhân dân với các loại hình tham gia thích hợp với tính chất hoạt động của các tổ chức này.
3. Trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng:
Cũng giống như trong vai trò của phòng, chống tham nhũng; trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của tất cả mọi tổ chức, mọi thành viên của xã hội, bất cứ khi nào khi phát hiện ra những dấu hiếu của hành vi tham nhũng đều phải có những hành động nhằm ngăn chặn nó xảy ra gây thiệt hại cho đất nước và xã hội. Để làm rõ hơn về trách nhiệm của phòng, chống tham nhũng thì ta sẽ đi vào tìm hiểu từng chủ thể cụ thể:
3.1. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong phòng, chống tham nhũng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm sau đây:
– Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng; phản biện xã hội, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng; kiến nghị việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng;
– Động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin về các hành vi tham nhũng;
– Cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng;
– Thực hiện giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng, thu hồi tài sản tham nhũng, kiến nghị việc bảo vệ, khen thưởng người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
3.2. Trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo trong việc phòng, chống tham nhũng:
– Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm trong việc đưa các thông tin về hoạt động phòng chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng đang xảy ra trên thực tế;
– Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng.
3.3. Trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong phòng, chống tham nhũng:
– Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của mình thực hiện đúng quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng; kịp thời thông báo đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về xử lý hành vi tham nhũng.
– Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
– Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác phòng, chống tham nhũng.
3.4. Trách nhiệm của công dân, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng trong phòng, chống tham nhũng:
– Công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng. Khi phát hiện có dấu hiệu của hành vi tham nhũng thực hiện ngay việc thông báo đến các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền xử lý kịp thời nhằm ngăn chặn hậu họa xảy ra của hành vi tham nhũng.
– Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Trong cuộc sống hàng ngày tham nhũng là căn bệnh nhức nhối trong bộ máy Nhà nước gây ra nhiều hệ quá tiêu cực. Mọi công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm tham gia tích cực trong việc ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới xóa bỏ các hành vi tham nhũng. Đấu tranh phòng chống tham nhũng không chỉ là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước mà còn là quyền và nghĩa vụ của toàn dân. Vậy trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng là gì?
Tại bài viết dưới đây, Luật sư X xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết “ Trách nhiệm của công dân trong phòng chống tham nhũng”. Mong rằng bài viết sẻ mang đến độc giả nhiều điều bổ ích .
Căn cứ pháp lý
Vai trò của nhân dân trong phòng chống tham nhũng
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của Nhân dân về trách nhiệm trong đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Để góp phần quan trọng nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng cần phải tích cực hơn nữa trong thực hiện quyền tố cáo và các quyền dân chủ ở cơ sở của Nhân dân. Trước hết, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của Nhân dân, của công luận trong công tác kiểm tra, giám sát, đấu tranh phát hiện, ngăn chặn những hiện tượng tham nhũng, quan liêu. Việc bảo đảm quyền làm chủ thật sự của Nhân dân sẽ đẩy lùi được tệ quan liêu, tham nhũng. Điều quan trọng bậc nhất là phải làm cho người dân hiểu rõ mục đích của việc thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ trực tiếp của chính mình và của toàn xã hội.
Hiện nay, trong các tầng lớp nhân dân không phải ai cũng hiểu đúng về các quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo, quyền công dân, quyền dân chủ, về thực hiện các quyền làm chủ của mình. Bên cạnh đó, ý thức và nhận thức về quyền công dân, quyền làm chủ của người dân nhiều nơi còn hạn chế. Vì thế, bằng những quy định cụ thể làm cho người dân có ý thức, có khả năng, có trách nhiệm thực hiện các quyền công dân, phát huy dân chủ và quyền làm chủ của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế và pháp luật về quyền công dân, quyền dân chủ để tạo điều kiện cho Nhân dân đấu tranh phòng chống tham nhũng có hiệu quả.
Những ý kiến của Nhân dân là những đóng góp, phát hiện từ thực tế sinh động của cuộc sống để xây dựng, thực thi đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước cần cụ thể hóa các quyền công dân, quyền dân chủ bằng những quy định rất cụ thể những điều dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng để Nhân dân phát huy quyền làm chủ của mình với tư cách là chủ thể của xã hội. Bảo đảm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin đến người dân.
Do đó, khi soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách, nhất là khi thực hiện các chương trình, dự án… phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong Nhân dân, tiếp thu ý kiến đóng góp của Nhân dân, làm cho các văn bản, các chính sách, chủ trương, dự án được công khai, minh bạch. Tạo mọi điều kiện cho người dân có quyền dân chủ bàn bạc, quyết định những công việc thiết thực ở cơ sở, như: quyết định và theo dõi các khoản thu, chi do Nhân dân đóng góp; giám sát các công trình xây dựng, phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước…
Cần tiếp tục hoàn thiện và bổ sung cơ chế giám sát của người dân, khắc phục những lỗ hổng trong các quy định của pháp luật. Đặc biệt, những quy định về tiền vốn Nhà nước, đóng góp của Nhân dân lại càng phải được giám sát chặt chẽ. Từ đó mới thực sự khuyến khích được tinh thần trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo của Nhân dân trong lao động và là cơ sở để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, quan liêu.
Cần có thêm nhiều hình thức tiếp thu rộng rãi hơn sự phản ánh, phát hiện của Nhân dân về những sai phạm của cán bộ, đảng viên, tổ chức để kịp thời đấu tranh PCTN như: thiết lập đường dây nóng, hộp thư kín, thực hiện tiếp dân, tăng cường đối thoại với dân… Cần chỉ ra những việc cán bộ, đảng viên không được làm và công khai những điều này cho Nhân dân biết để Nhân dân giám sát, góp ý và thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm của dân.
Sửa đổi những quy định trong Quy chế Dân chủ ở cơ sở, và sớm luật hóa Quy chế này, bổ sung những quy định cần thiết, từ đó tích cực đưa việc thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ ở cơ sở vào cuộc sống. Kịp thời bổ sung những chế tài nghiêm khắc đối với những người có hành vi cản trở việc thực hiện quyền tố cáo và các quyền dân chủ của công dân.
Thứ ba, tăng cường sự lãnh đạo, công tác kiểm tra của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân dân.
Để thực hiện có hiệu quả quyền tố cáo, quyền dân chủ của Nhân dân, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, nhất thiết phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp.
Sự lãnh đạo của Đảng hướng vào mục tiêu phải đạt được hiệu quả trong cuộc đấu tranh PCTN. Ở những nơi có biểu hiện vi phạm dân chủ nghiêm trọng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp phải thật sự kiên quyết; có cơ chế lãnh đạo phù hợp. chế tài phù hợp, chặt chẽ, nghiêm ngặt. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy, của tổ chức Đảng đối với việc bảo đảm điều kiện để Nhân dân thực hiện các quyền công dân, quyền dân chủ của mình, góp phần đấu tranh PCTN có hiệu quả. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm kịp thời các nội dung, các mục tiêu thực hiện quyền công dân, quyền dân chủ trong đấu tranh PCTN của Nhân dân.


Trách nhiệm của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Theo Điều 5 Luật phòng, chống tham nhũng quy định quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng như sau:
Công dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.Công dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng.Như vậy thông qua quy định trên ta có thể thấy rằng pháp luật về phòng chống tham nhũng quy định rõ về trách nhiệm của công dân trong việc tham gia phòng, chống tham nhũng, tố cáo hành vi thamnhũng, tham gia phòng, chống tham nhũng. Công dân có thể tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng bằng việc trực tiếp thực hiện quyền tố cáo của mình hoặc thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân.
Theo đó, công dân phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng; lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng. Phản ánh với Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình là thành viên về hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng để Ban thanh tra nhân dân, tổ chức đó kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Cộng tác với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc tham nhũng khi được yêu cầu.
Khi tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, công dân phải nêu rõ họ, tên, địa chỉ, nội dung tố cáo và cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền. Người tố cáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập do việc tố cáo hành vi tham nhũng.
Công dân được quyền tham gia phòng, chống tham nhũng thông qua Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình là thành viên. Nhân dân ở xã, phường, thị trấn, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình có quyền phản ánh với Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường, thị trấn hoặc ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước nơi mình cư trú hoặc làm việc. Ban thanh tra nhân dân là một tổ chức để thực hiện quyền giám sát của nhân dân ở địa phương, cơ sở.
Việc phản ánh của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng phải khách quan, trung thực. Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, xem xét và kiến nghị Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật và giám sát việc giải quyết đó.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức mà công dân là thành viên có trách nhiệm tiếp nhận ý kiến phản ánh của công dân về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham nhũng xem xét và kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật. Khi nhận được thông báo kết quả giải quyết vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thì Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà công dân là thành viên có trách nhiệm thông báo kết quả giải quyết cho công dân đã có ý kiến phản ánh biết.
Những yếu tố kiềm chế địa vị của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Năng lực của chínhquyền
Trong mối tương quan giữa chính quyền và công dân trong hoạt động phòng, chống tham nhũng phòng chống tham nhũng thì cách tiếp cận, khả năng và sự sẵn sàng của chính quyền đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ quyền lực hoặc thực hiện các cơ chế chống tham nhũng có sự tham gia của công dân. Phương pháp tiếp cận chống tham nhũng lấy công dân làm trung tâm có vẻ khả thi hơn trong môi trường ít tham nhũng hơn. Ngược lại, ở những quốc gia được coi là có mức độ tham nhũng cao, thì vấn đề địa vị của công dân trong phòng chống tham nhũng ít được quan tâm vì chính quyền không thể chấp nhận được các sáng kiến nhằm giảm bớt quyền lực đó.
Ví dụ: về lập ngân sách, việc này cần được phân cấp tối đa theo hướng trao quyền cho chính quyền địa phương. Quyền hạn này cho phép công dân kiểm soát tài chính công và ra quyết định về các vấn đề như giáo dục, y tế và cơ sở hạ tầng, giảm độc quyền quyền lực của các quan chức nhà nước ở trung ương và định hình lại cơ cấu trách nhiệm giải trình. Các cơ chế chống tham nhũng lấy công dân làm trung tâm sẽ thiếu hiệu quả nếu sự trao quyền giám sát, đánh giá của công dân bị hạn chế.
Năng lực công dân
Năng lực công dân là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả và sức mạnh của công dân trong hoạt động phòng chống tham nhũng. Chẳng hạn, khi công dân tham gia vào nhiều nhiệm vụ khác nhau như các hoạt động lập kế hoạch và báo cáo phức tạp có khả năng vượt quá khả năng của công dân. Một bộ phận công dân có khả năng tìm hiểu, tiếp cận thông tin chính xác và biết được đâu là điều tốt nhất cho mình; trong khi đó, sẽ luôn có những nhóm công dân thiếu tự tin và khả năng để tham gia đánh giá và thực hiện các hoạt động giám sát hành vi của quan chức.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng lực công dân trong hoạt động phòng chống tham nhũng, ví dụ như nền tảng giáo dục của mỗi cá nhân. Ngoài ra, năng lực công dân cũng bị hạn chế bởi tính chất đơn lẻ của các cá nhân trong công cuộc phòng chống tham nhũng. Trong khi, công chức là người được nắm giữ thông tin, được trao quyền bởi cộng đồng thì sự phản ứng của một cá thể hay một nhóm nhỏ rất khó làm thay đổi sự bất cân xứng quyền lực giữa người ủy nhiệm và người nhận uỷ nhiệm. Trong một số trường hợp, những cá thể chiến đấu đơn lẻ sẽ có thể bị trả đũa bằng nhiều cách từ trực tiếp tới gián tiếp. Chính điều này thường dẫn tới tâm lý né tránh, thờ ơ trước quyền giám sát, kiểm tra của mình đối với các công chức.
Xem thêm: Tuyển Sinh Liên Thông Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, Liên Thông Cao Đẳng Lên Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Ảnh hưởng của môi trường văn hóa – chính trị – pháp lý
Nhìn từ lý thuyết về hành động tập thể, tham nhũng chịu sự ảnh hưởng rất nhiều từ cộng đồng xã hội. Một tập thể xã hội liêm chính sẽ làm giảm khả năng tham nhũng của các công chức. Tuy nhiên, nếu một tập thể, cộng đồng có văn hóa hay truyền thống coi tham nhũng là một điều bình thường thì khả năng tham nhũng của các công chức sẽ cao hơn. Ở những quốc gia có nền văn hóa trọng quan hệ, đề cao sự gắn kết gia đình, bạn bè thì trên cơ sở mối quan hệ cá nhân và lòng tin dành cho nhau, người ta có thể ra quyết định giải quyết linh hoạt các tình huống bất thường trong cuộc sống, kinh doanh hay công sở, thậm chí có thể dàn xếp nhiều vụ việc hiệu quả hơn so với việc áp dụng pháp luật. Mặc dù cách xử lý này chưa chắc đã dẫn đến tham nhũng, nhưng nó khiến ranh giới giữa sự giúp đỡ hợp pháp và tham nhũng trở nên mờ nhạt, nhất là đối với các quốc gia mà người dân thiếu tin tưởng vào hệ thống pháp luật. Mỗi môi trường văn hóa như vậy sẽ tạo ra những cơ chế chính trị, pháp lý chứa đựng quan điểm của cộng đồng về cách tiếp cận cũng như giải pháp ứng phó với tham nhũng. Khi tham nhũng khởi nguồn từ lòng tham hay từ tính toán lợi ích vị kỷ của mỗi cá nhân thì việc mỗi cá nhân có thực hiện hành vi tham nhũng hay không, và mức độ phổ biến của tham nhũng trong một cộng đồng như thế nào, còn phụ thuộc vào môi trường xã hội, nơi mà có hay không kỳ vọng và quyết tâm chung của cộng đồng về một xã hội liêm chính, nói không với tham nhũng. Một nghiên cứu về tình trạng tham nhũng ở Kenya và Uganda đã chỉ ra rằng, chi phí cho hành vi tham nhũng ảnh hưởng tới mức độ của tình trạng tham nhũng, trong khi chi phí cho hành vi tham nhũng phụ thuộc vào tỷ lệ người dân trong xã hội chấp nhận tham nhũng. Nếu tham nhũng là một hành vi được phần lớn mọi người trong xã hội chấp nhận thì các cá nhân sẽ lựa chọn thực hiện các hành vi tham nhũng, dù biết nó là sai trái, bởi vì chi phí cho việc thực hiện hành động này sẽ được giảm thiểu so với việc làm đúng quy định, ít nhất là ở cấp độ cá nhân.