Toạ độ địa lý: 20o17' - 22o44' vĩ bắc và 106o06' - 106o39' kinh đông. Diện tích:1. 543 km2 Chiều dài bờ biển: 49,25 km (huyện Thái Thuỵ 21,52 km, huyện Tiền Hải 27,73 km)
Toạ độ địa lý: 20o17' - 22o44' vĩ bắc và 106o06' - 106o39' kinh đông. Diện tích:1. 543 km2 Chiều dài bờ biển: 49,25 km (huyện Thái Thuỵ 21,52 km, huyện Tiền Hải 27,73 km)
Ðồng đất Thái Bình được hình thành dọc theo các triền sông Hồng, sông Luộc, sông Hoá, sông Trà Lý là những bờ bãi thuận tiện cho con người cư trú và trồng trọt. Với ưu thế của vùng đất ven biển phù sa màu mỡ nên đã cuốn hút cư dân khắp nơi về khai phá, lập làng. Có hai luồng cư dân chủ yếu vào tụ cư và hợp cư ở Thái Bình
Như vậy, có thể khẳng định: Vào cuối thời đại đồng thau, đầu thời đại đồ sắt, làng xóm Thái Bình không chỉ dựng lập ở những khu đất cao mà còn ở cả những vùng trũng: Sông Đại Nẫm và sông Cô, giữa sông Trà Lý và sông Tiên Hưng ngày nay. Những địa danh này mà quen gọi là "đường", "gò", "đống", "mả".
Mộ cổ chủ yếu là mộ gạch. Rải rác một vài nơi trong tỉnh còn tìm thấy mộ quan tài hình thuyền (tục chôn cất của người Việt đầu Công nguyên) như ở An Khê (Quỳnh Phụ), Ðông Các (Ðông Hưng), Thuỵ Hồng (Thái Thuỵ). Những ngôi mộ ở Hưng Hà và Quỳnh Phụ có quy mô khá lớn, dài từ 5 đến 6 mét, rộng từ 1,5 đến 2 mét, cao khoảng 1,5 mét, xây vòm cuốn