Hiện nay, sự phát triển kinh tế thị trường cùng với xu hướng toàn cầu hoá đã "buộc" các bậc cha mẹ "phải làm việc quên mình" và dường như "quên luôn cả những đặc điểm tâm sinh lý của con em mình". Đặc biệt khi trẻ bắt đầu vào lớp 1, trước mắt trẻ là một môi trường hoàn toàn mới. Vì thế mà không ít trường hợp các gia đình hiện nay lâm vào cảnh "tiến thoái lưỡng nam" vì con cái. Dưới đây là những đặc điểm tâm sinh lý cơ bản nhất của học sinh tiểu học và những điều cần lưu ý đối với các bậc cha mẹ và thầy cô giáo: 1. Đặc điểm về mặt cơ thể -Hệ xươngcòn nhiều mô sụn, xương sống, xương hông, xương chân, xương tay đang trong thời kỳ phát triển (thời kỳ cốt hoá) nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạtđộng vui chơi của các em cha mẹ và thầy cô (sau đây xin gọi chung là các nhà giáo dục) cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn. -Hệ cơđang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy mà các nhà giáo dục nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho trẻ. -Hệ thần kinh cấp caođang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,...Dựa vào cơ sinh lý này mà các nhà giáo dục nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy của các em. Chiều cao mỗi năm tăng thêm 4 cm; trọng lượng cơ thể mỗi năm tăng 2kg. Nếu trẻ vào lớp 1 đúng 6 tuổi thì có chiều cao khoảng 106 cm (nam) 104 cm (nữ) cân nặng đạt 15,7 kg (nam) và 15,1 kg (nữ). Tuy nhiên, con số này chỉ là trung bình, chiều cao của trẻ có thể xê dịch khoảng 4-5 cm, cân nặng có thể xê dịch từ 1-2 kg. Tim của trẻ đập nhanh khoảng 85 - 90 lần/ phút, mạch máu tương đối mở rộng, áp huyết động mạch thấp, hệ tuần hoàn chưa hoàn chỉnh. 2.Đặc điểm về hoạt động và môi trường sống 2.1Hoạt động của học sinh tiểu học - Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui chơi sanghoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như: +Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật sang các trò chơi vận động. +Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,... +Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,... 2.2Những thay đổi kèm theo -Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ. -Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học tập tốt. -Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình. Biết được những đặc điểm nêu trên thì cha mẹ và thầy cô phải tạo điều kiện giúp đỡ trẻ phát huy những khả năng tích cực của các em trong công việc gia đình, quan hệ xã hội và đặc biệt là trong học tập. 3. Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ) 3.1Nhận thức cảm tính 3.1.1Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.3.1.2Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ ràng - Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,...) Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác. 3.2 Nhận thức lý tính 3.2.1 Tư duy Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động. Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học. 3.2.2 Tưởng tượng Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau: Ở đầu tuổi tiểu họcthì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện. 3.3 Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng. 3.4 Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Ở đầu tuổi tiểu họcchú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Ở cuối tuổi tiểu họctrẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định. Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ. 3.5 Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic Giai đoạn lớp 1,2ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu. Giai đoạn lớp 4,5ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em... Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức. 3.6 Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học Ở đầu tuổi tiểu họchành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn. Đến cuối tuổi tiểu họccác em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời. Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ. Nói tóm lại,sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ,tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học. 4. Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năngkiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư... Vì thế có thể nói tình cảm của trẻchưa bền vững, dễ thay đổi(tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều. Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ. Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,... 5. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học Nét tính cách của trẻđang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ. Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mangtính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mangtính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mangtính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình. Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy. Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi nền tảng cho sự phát triển của mỗi cá nhân, do vậy giáo dục trong giai đoạn này cần được đặc biệt chú trọng. Bên cạnh việc trang bị các kiến thức cơ bản qua hoạt động học tập, lao động trên trường lớp, việc được tiếp xúc và học hỏi các kỹ năng mềm phù hợp là cần thiết để học sinh tiểu học có được sự phát triển nhân cách toàn diện cũng như thích nghi tốt với sự thay đổi môi trường.
![]() Đặc điểm của học sinh tiểu học THÔNG TIN KHÓA HỌC KỸ NĂNG MỀM DÀNH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC (LỚP HỌC NHÓM 4-6 HS) Kỹ năng mềm là gì?Theo nghĩa rộng, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) cho rằng: Kỹ năng mềm là tập hợp những kỹ năng cần thiết cho phép cá nhân thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc sống hàng ngày. Như vậy, kỹ năng mềm bao gồm từ những kỹ năng cơ bản, đơn giản như ăn, nói, đọc, viết, tính toán… cho tới các kỹ năng phức tạp như giao tiếp, ra quyết định, giải quyết vấn đề, tư duy phản biện…Những kỹ năng mềm trên gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết: gồm các kỹ năng tư duy đánh giá, tư duy sáng tạo, ra quyết định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm….Học để làm: gồm các kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…Học để làm người: gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin…Học để chung sống: gồm các kỹ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thông…Đặc điểm của học sinh tiểu họcĐặc điểm về mặt thể chấtHệ cơ và xương đang trong thời kỳ phát triển mạnh, nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa….Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, tư duy trừu tượng. Các em thường tò mò về thế giới xung quanh, đặt nhiều câu hỏi và hứng thú với các trò chơi trí tuệ.Đặc điểm về hoạt động và môi trường sốngHoạt động chủ đạo của trẻ chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Trẻ cũng thường dành nhiều sự quan tâm đối với việc học trên trường.Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu thực hiện các hoạt động tự phục vụ bản thân và gia đình như tự tắm rửa, tự giặt quần áo, quét dọn nhà cửa, nấu cơm, làm việc nhà… Ngoài ra trẻ cũng tham gia các hoạt động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây…Hoạt động xã hội: Trẻ bắt đầu tiếp xúc và tham gia vào các phong trào, hoạt động của trường, lớp và cộng đồng.Đặc điểm về mặt nhận thứcKhả năng chú ý: Ở đầu tiểu học, khả năng chú ý của trẻ còn hạn chế và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Đến cuối tiểu học, trẻ đã bắt đầu có thể tổ chức, chủ động điều chỉnh sự chú ý của mình như học thuộc một bài thơ, thực hiện một phép toán, hay nhớ công thức… Trẻ cũng ước lượng được một khoảng thời gian cần thiết để làm một công việc nào đó.Khả năng ghi nhớ: Ở đầu tiểu học, trẻ còn ghi nhớ một cách máy móc. Đến cuối tiểu học, trẻ đã có thể ghi nhớ thông tin dựa trên ý nghĩa, các từ khóa, các đặc điểm chung….Khả năng tưởng tượng: Ở đầu tiểu học, hình ảnh tưởng tượng của trẻ còn đơn giản và dễ thay đổi. Đến cuối tiểu học, trẻ đã có thể tưởng tượng sáng tạo thông qua các hoạt động làm thơ, làm văn, vẽ tranh… Trí tưởng tượng của các em gắn liền với những rung động về mặt xúc cảm, tình cảm.Khả năng ngôn ngữ: Ở đầu tiểu học, trẻ đã có ngôn ngữ nói thành thạo. Đến cuối tiểu học, trẻ đã thành thạo ngôn ngữ viết, và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Vốn từ ngữ của trẻ được tăng cường qua thời gian.Xem thêm: Phân Biệt Sinh Trưởng Sơ Cấp Và Sinh Trưởng Thứ Cấp Và Sinh Trưởng Thứ Cấp Đặc điểm về mặt tính cáchNét tính cách của trẻ còn đang trong quá trình hình thành, chưa có sự ổn định, trong đó trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng.Khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, tuy vậy đã có sự trưởng thành hơn so với tuổi mầm non.Trẻ có thể bắt đầu bộc lộ những năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kỹ thuật, khoa học, ngoại ngữ,….
Những kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh tiểu họcHoạt động giáo dục trong các trường tiểu học ngày nay tuy đã có nhiều cải tiến so với trước đây, nhưng nhìn chung vẫn còn nặng tính lý thuyết khi tập trung vào các kỹ năng cơ bản như đọc, viết, nói, tính toán, làm văn…Học sinh tiểu học đến trường để được rèn luyện các kỹ năng này và tiếp thu các kiến thức có thể đo lường, kiểm tra thông qua các bài thi giữa kỳ hay cuối kỳ. Tuy nhiên, giai đoạn phát triển ở lứa tuổi tiểu học đánh dấu quá trình thay đổi từ hoạt động vui chơi ở mẫu giáo sang hoạt động chủ đạo là học tập. Vì vậy nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt tâm lý, các em sẽ không tránh khỏi trạng thái bỡ ngỡ, thích nghi kém, từ đó gặp khó khăn trong quá trình học tập và tham gia vào các hoạt động xã hội. Từ những đặc trưng tâm lý lứa tuổi nêu trên, để giúp các em có được sự phát triển lành mạnh theo lứa tuổi và làm quen với các hoạt động trên trường học thì việc phát triển các kỹ năng sau đây là hết sức cần thiết: Kỹ năng tự bảo vệ bản thân (phòng tránh xâm hại, xử lý tình huống khẩn cấp) Kỹ năng ngoại ngữ Kỹ năng tự phục vụ bản thân (tự lập) Kỹ năng quản lý thời gian Kỹ năng quản lý tài chính Kỹ năng giao tiếp và ứng xử Kỹ năng thuyết trình Kỹ năng làm việc nhóm Kỹ năng quản lý cảm xúc Kỹ năng đồng cảmRèn luyện kỹ năng sống là cả một quá trình và cần có sự luyện tập để trở nên thành thạo cũng như sự hợp tác giữa bản thân các em với gia đình, nhà trường và xã hội. Do vậy, các em học sinh càng sớm được học tập những kỹ năng mềm phù hợp sẽ càng có nhiều thời gian rèn luyện để chuẩn bị tốt nhất cho tương lai. THÔNG TIN KHÓA HỌC KỸ NĂNG MỀM DÀNH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC (LỚP HỌC NHÓM 4-6 HS)Bạn băn khoăn lo lắng liệu con mình thiếu những kỹ năng cần thiết? Bạn mong muốn cân bằng giữa việc trau dồi kiến thức trên trường học và rèn luyện kỹ năng sống cho con? Bạn muốn con mình được chăm sóc tận tình thay vì học trong các lớp kỹ năng mang tính phổ cập? Khóa học của chúng tôi sẽ hỗ trợ bạn! Giới thiệu chungThấu hiểu những đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lứa tuổi học sinh Tiểu học, chúng tôi đã thiết kế một khóa học gồm 10 kỹ năng sống thiết yếu nhất để hỗ trợ các con trong quá trình tự lập và trưởng thành với các tiêu chí sau: Hiệu quảRiêng tư Trực quan, dễ hiểu, phù hợp với mọi học sinh độ tuổi từ 7-12Sử dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến Khóa học sẽ trang bị cho các con: Kỹ năng tự phục vụ bản thânKỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân Kỹ năng điều chỉnh và quản lý cảm xúc Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả Kỹ năng giao tiếp và ứng xử Kỹ năng quản lý tài chính Kỹ năng thuyết trình Kỹ năng tự tin trước đám đông Kỹ năng làm việc nhóm Kỹ năng đồng cảm Hình thứcKhóa học, tư vấnSố lượng: 4-6 học sinh/ lớp Số buổi: 12 buổi / khóa (1.5h – 2h/buổi) Chi phí |